Chương này đề cập đến một số trường hợp quỷ nhập xảy ra vào hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20.
Chúng ta lại bắt đầu từ Ars. Nhưng bây giờ cha sở thánh họ Ars không còn được coi là nạn nhân những vụ quấy nhiễu của ma quỷ nữa, mà là người dùng quyền lực của những nghi thức trừ quỷ trong Giáo Hội để đuổi quỷ.
Trước tiên là một sự kiện do anh Jean Picard, người làm nghề đóng móng ngựa trong làng làm chứng và cung khai trước toà án phong thánh.
Một phụ nữ bị quỷ nhập được chồng chị dẫn đến Ars. Chị tỏ ra rất giận dữ và thốt ra những tiếng ú ớ. Không ai hiểu được chị ta muốn nói gì. Sau khi tiếp xúc xem xét chị, cha sở Ars biết chị bị quỷ nhập, và tuyên bố phải dẫn chị đến gặp Đức Giám Mục địa phận. Bỗng nhiên chị ta lại nói được và nguyền rủa:
_ Được! Được! Là tạo vật mà giở mặt hả? A! Phải chi ta có quyền năng của Đức Giêsu Kitô thì ta sẽ tống các ngươi xuống hoả ngục hết!
_ Được! Cha Viannây nói ngay, mày biết Đức Giêsu Kitô. Tốt lắm! Hãy dẫn bà này tới chân bàn thờ!
Bốn người đàn ông sấp tới bất chấp chị ta kháng cự, họ đưa chị tới chỗ cha sở vừa nói.
Lúc đó, cha Viannây rút cái thánh tích lớn mà cha vẫn để trong túi ra, cha đặt thánh tích lên đầu chị bị quỷ nhập, chị ta quỳ xuống như người chết rỗi. Nhưng chỉ lát sau, chị trỗi dậy và chạy nhanh ra khỏi nhà thờ. Một giờ sau, chị trở lại, rất bình tĩnh, lấy tay chấm nước thánh để làm dấu thánh giá, rồi quỳ gối xuống. Chị đã được hoàn toàn chữa lành. Chị còn ở lại Ars với chồng chị ba ngày nữa, nêu gương sáng bằng tư cách và lòng đạo đức của mình cho tất cả những người tới đó hành hương.
Như vậy, tác động của cha sở họ Ars quả là hữu hiệu phi thường!
Trường hợp sau đây cũng tương tự như vậy. Lần này cũng lại là một phụ nữ, nhưng có người con trai của chị đi theo. Cả hai đều từ những vùng lân cận của xứ Cermont-Ferrand tới. Người phụ nữ đã bị đau khổ 40 năm nay vì cái chứng bệnh mà người ta đoán rằng chứng quỷ nhập. Ngay tại Ars, chị đã tỏ ra có nhiều dấu hiệu khá rõ ràng. Chị vừa nhảy múa vừa ca hát gần nhà thờ suốt một buổi. Nếu chỉ có thế, thì chỉ là bệnh mất trí đơn giản. Nhưng dấu hiệu quan trọng là khi người ta cho chị uống một vài giọt nước thánh thì bỗng nhiên chị nỗi xung lên và đập phá tường nhà thờ.
Một linh mục ngoại quốc ở đó thấy tội nghiệp chị, nên dẫn chị vào nhà xứ bằng con đường mà cha Viannây vẫn đi. Cha thánh bỗng xuất hiện, cha chỉ ban phép lành cho chị, lúc đó miệng chị ta đang đầy máu. Lập tức, người phụ nữ đáng thương này trở nên hoàn toàn bình thản, những đau khổ khủng khiếp mà chị phải chịu đựng bao nhiêu năm nay không còn trở lại nữa!
Trường hợp thứ ba là người từ giáo phận Avignon tới. Người ta dẫn tới cha sở họ Ars một cô giáo trẻ có những dấu hiệu bị quỷ nhập, theo lệnh của Đức Giám Mục, vị này đã đích thân nghiên cứu trường hợp quỷ nhập này. Cô được một cha phó họ đạo thánh Phêrô ở Avignon và bà Bề trên dòng nữ Phanxicô ở Orange dẫn tới. Họ tới Ars vào buổi tối ngày 27.12.1857. Sáng hôm sau, cô được dẫn tới phòng thánh lúc cha sở đang mặc áo lễ để cử hành thánh lễ. Nhưng lập tức cô giáo bị quỷ nhập la lên và tìm cách chạy trốn:
_ Ở đây đông người quá! Cô ta kêu lên.
_ Phải rồi! Đông người quá! Cha sở lập lại. Được rồi, người ta sẽ ra hết!
Cha sở ra dấu cho mọi người ra hết, chỉ còn lại một mình cha đối diện với Satan. Mới đầu, người ta chỉ nghe thấy có một tiếng động khó diễn tả nhưng rất lớn vang lên trong nhà thờ. Rồi có một giọng nói phát ra. Cha phó ở Avignon đứng gần cửa, nên nghe được cuộc đối thoại sau đây:
_ Mày có muốn dứt khoát ra khỏi người này hay không? Cha Viannây hỏi.
_ Muốn!
_ Tại sao?
_ Vì tôi đang ở với một người đàn ông mà tôi không thích.
_ A! Mày không thích tao à? Cha sở hỏi bằng một giọng mỉa mai.
_ Không! Con quỷ đáp với một giọng chói tai và tức giận.
Nhưng, hầu như ngay lúc đó, cánh cửa lại mở. Tất cả mọi người đều thấy cô giáo trẻ khóc lên vì sung sướng, và từ đó về sau, cô trầm tĩnh và đơn sơ, lòng biết ơn lộ trên nét mặt. Cô đã được chữa lành. Nhưng bỗng chốc một tâm tình sợ hãi xâm chiếm cô, cô quay trở lại với cha Viannây và nói:
_ Con sợ nó trở lại!
_ Không đâu con! Thánh nhân nói với cô. Ít ra là không thể trở lại ngay được!
Quả thật cô giáo đã trở lại xứ sở của cô, tiếp tục dạy học tại thành phố Orange. Và nó không trở lại nữa.
Một thí dụ khác đáng nhớ về tác động của cha Viannây đối với Satan. Hôm đó là buổi chiều ngày 23.1.1840, một phụ nữ người Haute-Loire, thuộc vùng ngoại ô của Puy, đến quỳ gối trước toà giải tội của cha sở Thánh họ Ars. Nhưng khi cha bảo chị xưng tội, thì bỗng nhiên người ta nghe thấy một giọng the thé và lớn tiếng kêu lên:
_ Tôi chỉ phạm có một tội thôi, và ai muốn ăn cái trái cây đẹp đẽ ấy thì tôi sẽ chia phần cho! Hãy giơ tay lên và giải tội cho tôi. A! Tôi thường tới đây xưng tội với cha, và cha đã từng giơ tay giải tội cho tôi một vài lần rồi!
Cha Viannây hiểu rằng cha đang đối diện với ma quỷ. Nhưng muốn chắc ăn hơn, cha hỏi nó bằng tiếng Latinh những câu hỏi ghi trong Sách Các phép:
_ Tu qui es? (Mày là ai?)
_ Magister Caput (Là thủ lãnh bậc thầy). Quỷ trả lời như thế rồi tiếp tục nói bằng ngôn ngữ bình thường. Nó la lên:
_ A! Tên mặc áo đen kia, mi làm ta đau khổ biết bao! Lúc nào mi cũng nói rằng mi sẽ ra đi, tại sao mi lại không cút đi?... Có những tên mặc áo đen làm ta đau khổ không kém gì mi!
_ Tao sẽ viết thư cho Đức Giám Mục để xin phép trục xuất mày ra. Cha sở trả lời như thế!
_ Được! Ta sẽ làm mi run tay không viết được. Ta sẽ bắt mi, ta mạnh hơn mi mà!... Còn mi, mi chưa chết à? Nếu không có con mẹ khốn kiếp ấy ở trên trời kia (chỉ Đức Maria) thì chắc chắn ta đã tóm được mi! Nhưng bà ta che chở cho mi, cùng với con Rồng to lớn ấy ở cửa nhà thờ của mi (rõ ràng là chỉ thánh Micae)... Hãy nói đi, tại sao ban sáng mi thức dậy sớm thế? Mi vâng lời tên mặc áo dài tím à? (tức Đức Giám Mục). Tại sao mi giảng đơn sơ thế? Điều đó khiến mi bị coi là một tên dốt nát. Tại sao mi không giảng cho oai phong như ở trong các thành phố?
Những câu thoá mạ còn tiếp tục như thế rất lâu, sỉ nhục các Giám Mục và các Linh mục. Nhưng Satan bất đắc dĩ phải nhìn nhận cha sở Ars là một đầy tớ đích thực của Thiên Chúa.
Đức cha Trochu khi kể lại cuộc đấu khẩu này, không nói nó kết thúc ra sao, nhưng chúng ta có thể giả thiết rằng nó phải kết thúc bằng sự thất bại của Satan như những cuộc chiến đấu khác.
Người ta ghi nhận rằng trong trường hợp này vừa có sự quỷ nhập nơi người phụ nữ, vừa có sự quấy nhiễu của ma quỷ đối với cha sở Ars.
Cuối cùng, chúng ta hãy nghe chuyện cha Viannnây chữa lành cho một phụ nữ bị quỷ nhập vào một ngày chót của đời cha. Hôm đó là ngày 25.7.1859. Hôm nay là ngày cha phải nằm liệt giường để không bao giờ trỗi dậy nữa. Vào khoảng 8 giờ tối, người ta dẫn đến với cha một cách không phải là dễ dàng "một phụ nữ bị coi là quỷ nhập". Chồng chị đi với chị, và cùng với chị vào nhà xứ. Cha Viannây gặp họ tại đó. Chuyện gì xảy ra? Người ta không biết chính xác. Nhưng điều chắc chắn là chị ta được chữa khỏi.
Một số lớn nhân chứng đứng ở cửa nhà xứ và bỗng chốc thấy chị đi ra, tự do và sung sướng. Nhưng một người trong đám nhân chứng đó nói: "Người ta nghe thấy trong sân một tiếng động y như tiếng cành cây bị gãy đột ngột. Tiếng động ấy đã làm cho những người chứng kiến sợ hãi". Ông Oriol còn nói trong lời cung khai của ông: "Mà khi tôi vào nhà xứ sau kinh chiều, tôi thấy cây cơm cháy vẫn còn y nguyên".
Một lần nữa, việc quấy nhiễu và việc quỷ nhập lại đồng thời xảy ra.
Chúng ta hãy rời khỏi xứ Ars là nơi vừa cho chúng ta thấy khá nhiều trường hợp bị quỷ nhập đến từ nhiều xứ trên đất nước Pháp. Bây giờ chúng ta hãy sang vùng Alsace. Cha sở Ars, vừa qua đời ngày 4.8.1859. Những sự kiện quỷ nhập mà chúng ta sắp nghe, xảy ra ở Illfurth trong khoảng từ 1864 đến 1869. Illfurth ở cách Altkirch 7 km tại hợp lưu sông Ill và sông Largue, và nằm trên kênh đào nối sông Rhône với sông Rhin, ở quận Mulhouse. Thời đó là một thị trấn lớn có khoảng 1200 dân.
Nạn nhân của ma quỷ trong vùng này là hai anh em: một đứa tên là Thiébaut Burner, 9 tuổi, còn đứa kia tên là Joseph mới 7 tuổi. Vào cuối năm 1864, cả hai đứa đều có những triệu chứng bệnh hoạn khiến cho các bác sĩ phải hoang mang. Vào tháng 9.1865, có những hiện tượng hoàn toàn bất thường xuất hiện. Chẳng hạn cả hai đứa, nếu nằm ngửa, thì chúng có thể xoay đi xoay lại như những con bông vụ sống, với một tốc độ không thể tin được. Nhưng không phải chỉ có thế: đôi khi chúng đói mà ăn không no. Bụng chúng phồng to lên vô chừng. Chúng nói rằng trong dạ dày chúng có một cái gì giống như một trái cam, và có một con vật sống động di chuyển trong người từ trên xuống dưới.
Hơn thế nữa, thỉnh thoảng, nếu chúng ngồi trên một cái ghế dựa, thì cả ghế được một bàn tay vô hình nào đó nâng lên với chúng, rồi lơ lửng trên không mà chẳng có một lý lẽ nào rõ rệt giải thích được. Như chúng tôi đã nói ở trước, theo Đức Cha Saudreau, thì đó là những dấu hiệu báo cho biết đó là chứng quỷ nhập. Tại Illfurth, có rất nhiều người thấy những dấu hiệu đó, kể cả những người nghiêm chỉnh và có học thức, nếu không có chứng cứ thì không dễ gì tin được những chuyện lố lăng như những chuyện mà người ta kể cho chúng tôi đây. Chúng tôi đã trưng dẫn trong tác phẩm của J.H. Gruninger một đoạn văn dài ở chương trước. Ông này chứng nhận rằng trong số những người chứng kiến những sự việc ở Illfurth, có cha ruột của ông, và cha ông rất thường kể lại những gì đã xảy ra. Và cả vùng đó người ta đều biết chuyện này.
Trong một giáo phận có nhiều thành phần trí thức như giáo phận Strasbourg, ý tưởng cho rằng đây là một trường hợp quỷ nhập không thể nảy ra một cách nhanh chóng trong đầu óc của một số người Công giáo cũng như linh mục. Người ta tìm cách làm sáng tỏ vấn đề. Người ta thử trừ quỷ cho hai đứa trẻ, và trong khi trừ quỷ, họ yêu cầu ma quỷ cho biết tên của chúng.
Cách đây mấy trang, chúng ta đã đọc thấy cha sở họ Ars trong một trường hợp tương tự đã đọc những lời hỏi tên ghi trong sách Các phép: Tu qui es? (Mày là ai?). Trong trường hợp này, khi bị hỏi tên, ma quỷ thấy đối diện với chúng không phải là một quyền năng mạnh mẽ như quyền năng của vị thánh nhân họ Ars, nên trong một thời gian dài, chúng từ chối không chịu xưng tên ra. Nhưng rồi người ta cũng biết trong mỗi đứa trẻ có ít nhất hai con quỷ. Hai con quỷ nhập vào đứa lớn, Thiébaut, tự xưng là Ypès và Oribas. Còn trong đứa kia, có một con tên là Zolalethiel, nhưng con quỷ còn lại người ta không bao giờ biết được tên của nó.
Những dấu hiệu cho biết chứng quỷ nhập ghi trong Sách Các phép đã được kiểm chứng trong trường hợp của hai đứa trẻ này, vì chúng nói được nhiều thứ tiếng rất khác nhau, hay ít ra chúng có thể trả lời những câu hỏi được hỏi bằng tiếng Latinh, tiếng Anh, Pháp, Đức, hay bằng thổ âm vùng đó. Việc nói được các thứ tiếng chưa học là một dấu chỉ có sức thuyết phục. Một dấu chỉ khác: chúng rất ghét nước thánh, nói chung là không sao sửa chữa được việc chúng ghét những vật đã được làm phép. Dấu chỉ thứ ba: chúng có thể tiên báo trước những biến cố sắp xảy ra. Người ta có thay phiên nhau ở bên cạnh hai đứa trẻ bị quỷ nhập đó cũng vô ích. Chúng tỏ ra có một tầm hiểu biết rất cao so với tuổi tác và học vấn của chúng. Không một câu hỏi nào chúng không trả lời được, dẫu là những câu hỏi rất khó hoặc rất rắc rối. Rõ ràng sự hiểu biết này không phải là tự nhiên. Chúng thuộc loại ngoại nhiên. Nhưng tất cả mọi hoàn cảnh đều có khuynh hướng chứng tỏ rằng sự hiểu biết đó không phải của các thiên thần, mà thực sự là của ma quỷ.
Chẳng bao lâu cả miền Alsace đều biết những sự kiện ấy. Tiếng đồn vang tới tận Paris. Theo yêu cầu của giáo luật, Toà giám mục Strasbourg cho mở cuộc điều tra. Theo yêu cầu của toà tỉnh trưởng tỉnh Haut-Rhin, quận trưởng quận Mulhouse cũng ra lệnh cho đội trưởng hiến binh Werner viết một bài tường trình về những sự kiện đã xảy ra.
Werner bèn tới tận nơi. Nếu anh ta có tiên kiến thì tiên kiến đó hẳn là bất lợi. Anh tin chắc chắn rằng, giữa thế kỷ 19 này, việc tin vào ma quỷ là một chuyện không thể chấp nhận được. Nhưng anh ta đã tỉnh ngộ ngay khi anh ta tới tận nơi. Chắc chắn là ở Illfurth có xảy ra những chuyện vượt quá tầm hiểu biết của anh.
Về phía mình, từ lâu Giáo quyền đã đi đến kết luận cần phải có, như phải làm phép trừ quỷ cho hai đứa trẻ. Trong thời gian đó, chúng vẫn lớn lên. Đến năm 1869, thì những trò ma quỷ đó đã kéo dài được 5 năm. Thiébaut đã được 14 tuổi, còn đứa em được 12 tuổi.
Việc trừ quỷ được thực hiện làm hai lần, nghĩa là trừ quỷ đứa này xong mới tới đứa kia.
Việc trừ quỷ được thực hiện ở cô nhi viện Saint Charles ở Schiltigheim. Về việc này, chúng tôi có bài tường thuật trong một cuốn sách: Cuốn Aux prises avec Satan: Les Possédés d'Illfurth (Đương đầu với Satan: những người bị quỷ nhập ở Illfurth), của các tác giả Suter, cha sở Eichhoffen ở Alsace, và Francois Gaquère, tiến sĩ văn chương và thần học, và cha Arras (Ed. Marie-Médiatrice, à Genval, Belgique, 1957).
Trước tiên, ta thấy đứa trẻ bị quỷ nhập tỏ ra rất ghét những vật đã được làm phép, mặc dù nó sinh ra trong một gia đình Kitô giáo và được giáo dục về đức tin hẳn hoi. Tác phẩm đó có viết:
"Đối với nó, nhà thờ là một cái chuồng heo, nước thánh là một thứ nước ghê tởm, các linh mục là những cái váy đen, các nữ tu săn sóc bệnh nhân là những đống rác, người Công giáo là đồ đểu, các trẻ em là những con chó nhỏ".
Ma quỷ dùng miệng đứa trẻ để nói. Khi ma quỷ biểu lộ sự hiện diện của nó, thì đứa trẻ giống như một người xuất thần, bị lả đi như chết. Lúc khác nó như một cậu bé điển trai, mặc dù xanh xao, u sầu và có điệu bộ của một đứa trẻ bất hạnh.
Tại viện mồ côi, nơi người ta dẫn nó tới, nó tỏ ra điềm tĩnh, chỉ chơi và đi dạo trong sân. Chưa bao giờ nó học tiếng Pháp, thế mà nó trả lời cho các khách tham quan bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo không chê được, và trả lời bằng cả tiếng Latinh nếu người ta hỏi nó bằng thứ tiếng này, mặc dù nó chưa bao giờ dùng cũng như chưa bao giờ học thứ tiếng này. Nó tự do đi khắp nơi, trừ nhà nguyện. Khi nó đi gần nơi thánh này, cho dù người ta bịt mắt nó để nó không biết người ta dẫn nó đi đâu, thì nó vẫn cứng người lại, sủa lên như chó, và từ chối tiến tới. Lúc đó gương mặt của nó trông rất ghê tởm. Nếu người ta rảy nước thánh lên người nó, thì nó co rúm lại như một con sâu bị đạp lên, và nó chỉ trở lại bình thản nếu người ta để cho nó được đi chỗ khác. Ngày được chọn để làm phép trừ quỷ là ngày 3.10.1869. Cần phải dùng sức mạnh để cưỡng ép đứa trẻ tới nhà nguyện.
Tại đó, nó được trói vào một cái ghế bành, và có ba người đàn ông giữ chặt lấy nó. Đó là các ông Schrantzer, Hausser, và anh giữ vườn André. Nó được đặt trên một tấm thảm, trước bàn cho rước lễ, gương mặt hướng về nhà tạm. Đôi má nó có sắc đỏ như bị lên cơn sốt. Miệng nó sùi bọt chảy xuống tận đất. Nó quay qua quay lại đủ hướng, y như nó đang ở trên một cái vỉ nướng, còn mắt thì tìm chỗ nào có cửa để ra. Người làm phép trừ quỷ là cha Souquat, được Đức Cha Raess, Giám mục Strasbourg uỷ quyền. Ngay giây phút đầu, cha cảm thấy ngần ngại, vì nghe thấy từ miệng đứa trẻ mà cha vừa mới biết, thốt lên một cách hung tợn bằng một giọng khàn khàn và dữ dằn:
" Hãy cút khỏi mặt tao! Hãy ra khỏi đây tên đểu giả kia!".
Bị sững sờ và hầu như mất hết bình tĩnh, vị linh mục trừ quỷ được nhiều giáo sĩ cao cấp và các nữ tu vây quanh, đã trấn tĩnh lại và bắt đầu đọc kinh cầu các thánh. Tới câu "Thánh Maria. Cầu cho chúng con", con quỷ thốt ra những tiếng kêu dễ sợ: "Hãy ra khỏi cái chuồng heo này, tên đểu giả kia. Ta không muốn", nó rên rỉ như thế. Nó lập lại những lời rên rỉ đó mỗi khi nghe kêu cầu một vị thánh. Nhất là càng kêu to hơn khi tới câu: "Các thánh thiên thần và Tổng lãnh thiên thần, cầu cho chúng tôi!". Một lát sau, khi linh mục trừ quỷ đọc: "Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi cạm bẫy ma quỷ", thì đứa bé bị quỷ nhập rùng mình và run rẩy cả tay chân. Nó rú lên dữ tợn, đồng thời vặn vẹo thân mình dữ dội, đến nỗi ba người đàn ông phải mệt lắm mới dành được nó.
Kinh cầu các thánh chấm dứt, vị linh mục tới trước mặt nó và tiếp tục đọc các kinh trong sách các phép.
Nó không ngừng kêu lên: Hãy ra khỏi cái chuồng heo này, tên đểu giả kia!". Nhưng khi linh mục đọc tới câu bằng tiếng Latinh "Gloria Patri, et Filio,..." (Sáng danh Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con...), thì con quỷ kia kêu lên bằng miệng đứa trẻ vốn không biết tiếng Latinh: "Ta không muốn!". Câu đó được giải thích như sau: "Ta không muốn tôn vinh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Trước khi đọc Tin Mừng thánh Gioan trên nó, như sách Các phép truyền phải đọc, linh mục làm một dấu thánh giá trên nó, và liên tiếp trên trán, trên miệng, trên trái tim, khiến cho nó lại rống lên nhiều lần nữa. Đứa trẻ tìm cách cắn vào tay cha Souquat. Lúc đó cha bắt đầu cuộc đối thoại sau đây bằng tiếng Đức:
_ Hỡi thần của tối tăm, con rắn bị đạp đầu! Ta, linh mục của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa, ta ra lệnh cho mi phải nói mi là ai?
_ Chuyện đó không can hệ gì tới mi cả, tên đểu giả! Ta muốn nói thì mới nói!
_ Đó đúng là thái độ và lời nói kiêu kỳ của mi mà mi đã dùng để nói với Đấng Toàn Năng khi Ngài đuổi mi ra khỏi Thiên đàng. Nhưng ta lập lại điều này, Satan, mi hãy ra khỏi đây, hãy ra khỏi nhà thờ này! Mi không thuộc về Nhà của Thiên Chúa, mà thuộc về bóng tối!
_ Không, Satan kêu lên, ta không muốn. Giờ ta chưa đến!
Việc trừ quỷ đã kéo dài 3 tiếng rồi. Vị linh mục đã hết sức mệt mỏi và đổ mồ hôi. Cha bèn tạm ngưng nghi thức. Ngay khi đứa trẻ ra khỏi nhà nguyện, nó hoàn toàn điềm tĩnh trở lại.
Ban tối, nó nói điều suy nghĩ này với cha Schrantzer, người đã đưa linh mục trừ quỷ tới bằng xe.
_ A! Cha đã trao cho ông ấy một tấm ảnh! Nó nói.
_ Cho ai vậy? Cha hỏi.
_ Tất nhiên cho ông lái xe!
Quả thật, cha đã cho ông lái xe một tượng ảnh của thánh Bênêđictô, nhưng chắc chắn Thiébaut không thể trông thấy cử chỉ đó của cha. Vì thế cha hỏi lại:
_ Làm sao con biết điều đó? Nếu không phải như thế thì con đã làm gì?
_ Nếu không có tượng ảnh đó thì con đã lật đổ xe, cả người lẫn ngựa. Con đã chạy tới ngay bên cạnh!
_ Vậy hãy nói, chúng ta đã làm cho con rất khổ sở: con có biết ai đã ban phép lành cho con không?
_ Biết chắc chắn, ông ta đã đuổi mất một trong những người chủ của chúng tôi...
Quả thật, trước đó nhiều năm, cha Souquat đã đuổi quỷ ra khỏi một căn nhà. Nhưng làm sao đứa trẻ này biết được điều đó?
Những chi tiết nhỏ này giúp cha Souquat xác định rõ hơn điều cha đã chắc chắn, là Thiébaut đã thực sự bị quỷ nhập.
Vì thế, cha chuẩn bị màn thứ hai.
Hôm sau, thứ hai 4.10.1869, vào lúc 2 giờ trưa, phép trừ quỷ lại được thực hiện với sự hiện diện của những nhân chứng ngày hôm trước.
Người ta buộc chặt đứa bé vào cái ghế bành màu đỏ và bắt nó mặc một cái áo trói (thường dùng cho người điên). Ma quỷ vẫn luôn luôn muốn biểu lộ sự có mặt của nó. Nên bỗng nhiên người ta thấy chiếc ghế bành cùng với đứa trẻ bay lên trên không, bất chấp ba người lực lưỡng cố gắng níu giữ lại, khiến họ bị xô nhào sang bên trái cũng như bên phải. Cùng lúc đó, đứa trẻ bị quỷ nhập rống lên ghê rợn và miệng nó phóng nước bọt ra.
Tuy nhiên, người ta cũng kéo nó xuống được, và bắt đầu nghi thức trừ quỷ. Hai tiếng đồng hồ trôi qua, sau khi đọc kinh cầu các thánh và những kinh nguyện mở đầu trong sách Các phép, linh mục trừ quỷ đứng dậy và một lần nữa kêu gọi ma quỷ:
_ Hỡi thần ô uế, lúc này giờ của mi đã đến, nhân danh Giáo Hội Công giáo, nhân danh Thiên Chúa, và nhân danh ta, là linh mục của Thiên Chúa, ta ra lệnh cho mi phải nói các ngươi có bao nhiêu đứa?
_ Điều đó không liên can gì tới mi cả, thằng đểu!
_ Đó là những lời nói kiêu ngạo mà mi và những người ở hoả ngục cứ ngoan cố nói hoài! Mi thuộc về vực sâu chứ không phải thuộc về ánh sáng! Hãy trở lại đó đi, hỡi thần ô uế!
_ Ta không muốn trở lại đó, ta muốn đi chỗ khác!
_ Này Satan! Ta ra lệnh cho mi nói cho ta biết tụi mi có bao nhiêu đứa?
_ Chúng ta chỉ có 2 thôi!
_ Mi tên gì?
_ Oribas.
_ Còn đứa kia?
_ Ypès.
_ Được! Hỡi các thần ô uế! Ta ra lệnh cho các ngươi phải ra khỏi nhà của Thiên Chúa: các ngươi không được làm gì ở đây cả. Hỡi các thần của hư mất! Hãy ra khỏi đây: ta ra lệnh cho các ngươi nhân danh Bí tích Thánh Thể! ...
_ Ta không muốn ra! Thằng đểu, mi không có quyền hành gì cả. Giờ ta chưa tới!
Vị linh mục một lần nữa lại nhễ nhại mồ hôi, ngài run rẩy. Những người chứng kiến cũng xúc động không kém, thậm chí sợ hãi nữa. Tuy nhiên, cha Souquat lại tiếp tục cuộc chiến. Cầm một cây thánh giá, cha đứng giơ trước mặt người bị quỷ nhập và nói:
_ Hỡi Satan khốn kiếp, mi không dám nhìn thẳng vào hình ảnh này, và mi quay mặt đi để khỏi phải trông thấy, mi thách thức linh mục. Ta ra lệnh cho mi, hãy ra khỏi đây, và hãy trở về hoả ngục là nơi dành cho mi!
_ Ta không muốn đi, con quỷ kêu lên, ở đó không tốt.
_ Đúng ra mi phải vâng lời Thiên Chúa, nhưng mi đã tự gây bất hạnh cho mi. Mi thích làm thần tối tăm hơn. Hãy rút lui ra khỏi ánh sáng, và hãy cút vào trong bóng tối đã được dọn sẵn cho mi!
_ Giờ ta chưa đến, ta không đi!
Vị trừ quỷ cầm cây đèn cầy đã được Đức Thánh Cha làm phép, và nói nhấn mạnh:
_ Hỡi Satan kiêu căng, ta đặt cây đèn cầy này trên đầu mi để chỉ cho mi con đường xuống hoả ngục. Ở đây là ánh sáng của Giáo Hội Công giáo, còn mi là thần của tối tăm. Phải, hãy trở về hoả ngục để gặp các đồng chí của mi.
_ Ta ở lại đây, vì ở đây thì tốt, còn ở hoả ngục không tốt.
Để kết thúc, vị linh mục cầm trong tay một bức tượng Đức Trinh Nữ Maria, và nói:
_ Mi có thấy Đức Trinh Nữ Maria không? Một lần nữa, Ngài sẽ đạp dập đầu mi! Ngài sẽ ghi và in trên ngực mi danh hiệu Giêsu và Maria để những danh hiệu đó sẽ thiêu đốt mi đời đời... Vậy, mi không nhượng bộ phải không? Ta đã ra lệnh cho mi nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Giáo Hội Công giáo, nhân danh Đức Thánh Cha, nhân danh Bí tích Thánh Thể. Mi vẫn giả điếc trước lời của linh mục. Này Satan, bây giờ chính Mẹ của Thiên Chúa ra lệnh cho mi! Ngài ra lệnh cho mi ra khỏi đây! Hỡi thần dơ bẩn, hãy trốn khởi Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội! Ngài ra lệnh cho ngươi phải đi!
Lúc đó, cả cộng đoàn tham dự đọc kinh Hãy nhớ (Memorare) bằng tiếng Latinh. Bỗng nhiên, bằng một giọng trầm trầm cương quyết, con quỷ kêu lên:
_ Được, ta sẽ đi!
Lúc đó, đứa trẻ đáng thương bị quỷ nhập vặn vẹo mình như một con giun bị người ta đạp trúng. Mọi người nghe thấy một tiếng rắc khô khan. Đứa trẻ duỗi người ra, cúi xuống và bất tỉnh. Con quỷ đã ra khỏi.
Cảnh tượng ấy khiến những người ở đó vốn đã sợ hãi lại hốt hoảng thêm. Trước đây một chút, họ trông thấy khuôn mặt Thiébaut đỏ bừng, đầy vẻ đe doạ và giận dữ, và họ đã nghe những câu trả lời đầy kiêu căng của Satan.
Bây giờ thì đứa trẻ đang ngủ thiếp đi, ngủ một tiếng đồng hồ. Ma quỷ đã ra khỏi nó. Khi người ta đưa ảnh Chúa Kitô đến trước mặt nó, hoặc rảy nước thánh trên người nó, nó không còn phản ứng nữa. Nó để cho người ta bồng nó vào phòng của nó một cách dễ dàng. Sau một thời gian ngắn, nó thức dậy, dụi mắt, và tỏ ra hết sức ngạc nhiên khi trông thấy chung quanh nó biết bao người mà nó không quen. Cha Schrantzer, người mới nói chuyện với nó hôm trước, hỏi nó:
_ Con có nhận ra cha không?
_ Không, con không biết cha!
Mẹ nó cũng có mặt ở đó. Chị ta reo lên vui mừng. Thằng Thiébaut của chị trước đây bị quỷ làm cho điếc, bây giờ lại nghe được bình thường, và nó đã được chữa khỏi quỷ nhập. Tất cả những người chứng kiến đều tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội một quyền năng cao cả như thế. Người mẹ và đứa trẻ trở về Illfurth với hy vọng rằng đứa em bị quỷ nhập cũng sẽ tới phiên được chữa lành sớm.
Điều kỳ lạ là khi trở về nhà, Thiébaut không còn nhớ gì nữa. Bốn năm vừa qua sống trong tình trạng bị quỷ nhập đã bị xoá khỏi ký ức. Nó không còn nhận ra cha sở của nó, cha Brey, một linh mục rất đạo đức, mà người ta đã so sánh với cha sở thánh họ Ars, và như người ta nói, cha cũng bị ma quỷ quấy nhiễu như ngài. Nó không nhớ là đã thấy toà thị trưởng mới. Nó đưa cho em nó những bức ảnh đã làm phép mà nó đem từ Strasbourg về. Nhưng Joseph ném xuống đất và nói:
_ Mày giữ lấy cho mày đi! Tao không thích mấy cái đó!
_ Nó có bị điên không má? Thiébaut hỏi mẹ.
Người ta tránh không nói cho nó biết trước đây nó cũng bị tình trạng như thế. Nó không nhớ gì nữa cả.
Thứ tư 6.10.1869, đứa em bị quỷ nhập kêu lên:
_ Hai đồng chí của tao - người ta hiểu nó nói đến Oribas và Ypès, hai con quỷ đã bị đuổi ra khỏi Thiébaut - đều là những thằng nhát gan. Hiện tại tao là chủ và là người mạnh nhất. Tao sẽ không ra khỏi đây trước 6 năm. Tao sẽ chọc quê mấy ông thầy tu.
Ông Tresch, làm thị trưởng, và là một Kitô hữu rất tốt, hỏi nó:
_ Mày mạnh thế à?
_ Đương nhiên, nó nói, ta thích ở đây. Ta đang sống trong cái tổ chim rất là ấm áp. Ta chỉ rời khỏi đây khi nào ta muốn.
Tuy nhiên, không để lâu, cha Brey đã xin toà Giám mục cho phép trừ quỷ. Đang khi Thiébaut lại trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn như ngày xưa, đi nhà thờ và đi học, xưng tội và rước lễ đàng hoàng, không còn nhớ 4 năm bị quỷ nhập nữa, thì tình trạng của Joseph càng ngày càng tệ đi. Cuối cùng, phép trừ quỷ của toà Giám mục đã về tới, cha sở ấn định ngày trừ quỷ là ngày 27.10. Tuy nhiên chuyện này được giữ kín để tránh tình trạng người ta kéo tới xem đông quá. Hôm đó là Chúa nhật, chỉ có một vài nhân chứng được mời tới dự. Và nghi thức trừ quỷ được cử hành tại nhà nguyện của nghĩa trang Burnkirch, cách làng khoảng 15 phút đi bộ. Hiện diện tại đó có ông thị trưởng Tresch, cha mẹ đứa trẻ, thầy giáo, ông trưởng nhà ga, cô giáo trường nữ sinh, giáo sư Lachemann, ông Spies và ông Martinot.
Vào lúc 6 giờ sáng, khi thánh lễ bắt đầu, thì đứa trẻ bị quỷ nhập bắt đầu giậm chân và nghiêng người xuống đủ mọi phía. Người ta phải trói chân trói tay nó lại. Chưa đọc xong các kinh dưới chân bàn thờ thì đứa trẻ đã tự cởi trói được, và đá những sợi dây trói đó lên tới chỗ cha làm lễ. Ông Martinot phải giữ chặt nó lại trên đầu gối của ông. Nó bắt đầu kêu lên những tiếng ú ớ, sủa ăng ẳng như chó con, kêu ủn ỉn như lợn con. Tuy nhiên, nó giữ được bình thản từ kinh "Thánh, Thánh, Thánh..." cho đến hết lễ.
Sau khi cởi áo lễ, mặc áo surplis và dây các phép (stola), cha sở bắt đầu làm phép trừ quỷ. Khi tới phần đối thoại với quỷ theo nghi thức, cha Brey ra lệnh cho nó nói có bao nhiêu con quỷ trong đứa nhỏ. Nó trả lời khô khốc: "Mi không cần biết điều đó!". Cha sở lại tiếp tục, nó nói ra tên Ypès, là một trong những con quỷ đã nhập vào anh đứa bé.
Trong khi đọc Tin Mừng Gioan, thằng nhỏ bị quỷ nhập kêu lên: "Tao sẽ không đi đâu cả!". Và nó chửi rủa vị trừ quỷ như tát nước. Vị này vẫn tiếp tục công việc suốt 3 tiếng đồng hồ. Các tham dự viên bắt đầu chán và nản. Nhưng cha sở, mặc dù chính cha đã hết sức mệt rồi, mồ hôi ra nhễ nhại, cha cũng khuyến khích họ đừng bỏ cuộc. Trong thời gian đó, ông thị trưởng Tresch giữ đứa nhỏ. Mệt quá, ông ta phải chuyển nó cho giáo sư Lachemann, thấy vậy, con quỷ kêu lên:
_ Mi cũng ở đây hả, thằng mũi tẹt?
Trong thời gian đó, cha sở quỳ gối trước bàn thờ, cầu nguyện một lát, và hứa sẽ làm tuần chín ngày tạ ơn nếu việc trừ quỷ thành công.
Từ trên bàn thờ xuống, cha sở nói với đứa trẻ:
_ Nhân danh Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, ta khẩn thiết truyền cho mi ra khỏi đứa trẻ này!...
Satan tức giận trả lời:
_ Làm sao bây giờ, tên kia đã cầu cứu tới cái Bà Vĩ Đại ấy của hắn! Kìa, ta buộc phải ra khỏi thôi!
Nghe những lời đó, cả cộng đoàn tham dự cảm thấy xúc động sâu xa. Tất cả đều hiểu rằng đứa trẻ sắp được chữa lành, mà nguyên nhân là do Đức Trinh Nữ Maria. Cha sở lặp lại lệnh truyền vừa rồi. Con quỷ bèn la lên:
_ Ta đi, ta sẽ nhập vào một đàn heo!
_ Mi phải vào hoả ngục! Vị linh mục ra lệnh.
_ Ta muốn nhập vào một đàn ngỗng! Nó năn nỉ.
_ Mi phải vào hoả ngục! Linh mục lập lại, mỗi lần đều nói lại lời ra lệnh theo đúng chỉ dẫn của sách Các phép.
_ Tao không biết đường đi tới đó! Satan nói. Ta sẽ nhập vào một bầy cừu!
_ Mi phải vào hoả ngục!
_ Bây giờ thì tình thế bắt buộc ta phải ra đi! Con quỷ thét lên.
Sau những lời này, đứa trẻ quay sang phải rồi sang trái, đồng thời duỗi ra, phùng má lên, và co giật lần cuối cùng rồi ngã xuống, đồng thời đột nhiên trở nên im lặng và bất động. Người ta cởi trói cho nó, tay của nó thõng xuống như không còn sinh lực, đầu ngửa về phía sau. Nhưng tình trạng đó chỉ kéo dài trong chốc lát. Rồi người ta thấy nó vươn vai như một người tỉnh giấc, nó mở to đôi mắt mà trước đó đã nhắm tịt suốt buổi lễ trừ quỷ, và tỏ ra ngạc nhiên thấy mình trong nhà nguyện với những người chung quanh.
Ngay từ đầu, con quỷ đã nói: "Nếu ta buộc phải ra đi, ta sẽ đánh dấu sự ra đi của ta bằng cách phá huỷ một cái gì đó". Quả thật, người ta thấy xâu chuỗi trên cổ đứa trẻ và sợi dây có thánh giá ở ngực bị đứt thành từng khúc. Tuy nhiên, nó lại không làm đứt được những sợi dây trói chân trói tay đứa trẻ.
Tất cả những người hiện diện đều ngạc nhiên về cảnh tượng vừa xảy ra. Họ hát bài Tạ ơn Thiên Chúa (Te Deum), kinh cầu Đức Mẹ, và kinh Lạy Nữ Vương (Salve Regina). Lời kinh bị ngắt ra vì những tiếng khóc nức nở. Cha Brey cảm thấy như bị tê liệt vì xúc động và nước mắt.
Chứng từ duy nhất cho thế giới! Ở làng Illfurth, gần công trường, trong một cái vườn, tại địa điểm nhà của hai đứa trẻ bị quỷ nhập nay đã bị phá hủy, vẫn còn một công trình kỷ niệm để ghi nhớ lâu dài những sự kiện chúng ta vừa nói tới. Đó là một cái cột cao có nổi lên rải rác những ngôi sao, trên đỉnh có tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trên bệ, người ta đọc thấy một câu viết bằng tiếng Latinh, mà chúng tôi dịch ra như sau:
"Muôn đời ghi nhớ việc chữa lành cho hai em Thiébaut và Joseph Burner bị quỷ nhập, nhờ lời cầu bầu của Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, năm của Chúa 1869".
Công trình này được dựng lên năm 1872 nhờ sự quyên góp, ngày nay vẫn còn được bảo tồn cẩn thận.
Trước khi đề cập đến trường hợp lạ lùng của một phụ nữ bị bùa mê ở Plaisance trong chương sau, chúng tôi muốn kể sơ qua một vài trường hợp khác. Trước hết là trường hợp của Hélène Poirier.
Bà này, một phụ nữ rất tốt, đã phải trải qua những thử thách khủng khiếp. Bà sống tới 80 tuổi, mất năm 1914. Cha Champault đã kể lại chi tiết những bất hạnh do ma quỷ gây ra cho bà trong một cuốn sách tựa đề Une possédée contemporains (một phụ nữ bị quỷ nhập thời hiện đại, 1834-1914) (Paris, Téqui). Tác giả đã tuỳ nghi sử dụng một tài liệu chính xác và đầy đủ. Lúc đó cha Champault điều khiển một tu hội ở Gien (Loiret) chính cha đã chứng kiến tận mắt phần lớn những sự kiện mà cha kể lại. Ngoài ra, cha còn có trong tay tài liệu rất phong phú của hai cha sở kế tục nhau phụ trách họ đạo Coullons, là họ đạo của người bị quỷ nhập. Cuối cùng, chính bà này đã giúp việc cho cha Champault trong nhiều năm, và cha vẫn giữ liên lạc với bà cho tới khi bà mất.
Hélène Poirier là ai? Là một cô gái tốt lành ở miền quê làm nghề buôn vải. Không ai hiểu tại sao Thiên Chúa lại cho phép ma quỷ quấy phá cô gái liêm chính này liên tục không dứt như vậy. Cô bị quỷ ám ảnh và chiếm hữu liên tiếp. Hai từ này (ám ảnh và chiếm hữu) chỉ những mức độ biểu hiện khác nhau của ma quỷ. Nếu người ta có thể gán cho những sự kiện loại này "khả-năng-có-một-mục-đích" (finalité) nào đó, mà không có nó thì Thiên Chúa đã không cho phép chúng xảy ra, thì có lẽ là Thiên Chúa Quan Phòng muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng: nếu để cho ma quỷ hoạt động tự do, chúng sẽ gây ra những nguy hiểm đáng sợ mà chúng tôi đã trình bày. Chúng ta biết rằng ma quỷ không được phép làm tất cả mọi chuyện. Thật là may mắn cho loài người khốn khổ chúng ta.
Hãy trở lại với Hélène Poirier. Có thể nói là cuộc đời cô được dệt bằng những trò hiếp đáp của ma quỷ, bằng những trận đòn nhục nhã, bằng những lần bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất,...
Cô ta bị ma quỷ chiếm hữu (hiểu theo nghĩa đen) ít nhất là hai lần, trong vòng 6 năm. Cả hai lần, cô đều được lãnh nhận phép trừ quỷ. Giữa khoảng thời gian này, cô rơi vào tình trạng bị ám ảnh với những mức độ khác nhau. Theo một nghĩa nào đó, cô là nạn nhân của ma quỷ, là người tử đạo vì sự độc ác của nó trong phần lớn đời sống của cô.
Đằng khác, nơi cô ứng nghiệm những gì mà Đức Cha Saudreau đã dạy chúng ta, chẳng hạn như sự can đảm và kiên nhẫn của nạn nhân quỷ nhập có thể trở thành những nguồn ân sủng siêu việt cho họ.
Trong phần thứ hai cuộc đời cô, Hélène Poirier được Thiên Chúa thưởng cho những an ủi lạ lùng, xảy ra song song với những tấn công của ma quỷ, đó là sự can thiệp của Thiên Thần bản mệnh, cho cô thấy những thị kiến về Đức Trinh Nữ và chính Chúa Giêsu.
Để hiểu được ma quỷ quấy rối cô hung bạo thế nào, chúng ta phải đối diện với vô số sự kiện, mà đây chỉ là một cái nhìn bao quát.
Khi còn sống với mẹ trong cảnh nghèo khổ cùng cực, Hélène đã phải chịu những cú bạt tai, đấm đá, và cả những mưu toan thắt cổ cô của những kẻ thù vô hình này, trước con mắt bất lực của mẹ cô. Đó không phải là những ảo ảnh tưởng tượng, vì mặt mũi và tay chân cô phải mang những dấu vết của những đối xử tàn tệ đó, đôi khi tồn tại suốt nhiều tuần lễ.
Ma quỷ tỏ hiện ra với cô dưới những hình thức xấu xa gớm ghiếc nhất. Nó đè lên người cô bằng sức mạnh của nó, nó quẳng cô xuống dưới đất - như thế vô số lần - nó táng vào mặt cô nhiều cú bạt tai.
Rất nhiều lần nó nâng cô lên khỏi mặt đất: những lần đó luôn luôn có một sức mạnh vô hình nắm lấy tóc cô, lôi cô đi khắp phòng của cô, kéo cô lên khỏi mặt đất, để rồi ném cô xuống đất, nửa sống nửa chết dưới gầm giường. Thậm chí có lần cô bỗng nhiên bị nắm đầu và bị đem lên bay trên các nhà cửa lân cận ở độ cao khoảng 40 mét.
Ban đêm, có những chuyện xảy đến cho cô giống như đã xảy ra cho cha sở họ Ars: một con quỷ lay động dữ dội những tấm màn ở giường cô, làm cho các thanh treo màn di chuyển ồn ào từ bên này sang bên kia theo cả hai chiều, cứ như vậy cả mấy tiếng đồng hồ. Hélène kêu cứu. Người ta chạy tới phòng cô. Phải có 20 người trông thấy những tấm màn ở giường quay vòng vòng như đã nói. Và người ta đã kể tên các nhân chứng đó để chúng ta không còn nghi ngờ về tính thực tế của sự kiện.
Dẫu Hélène Poirier được thánh hoá nhờ bao nhiêu đau khổ ấy, thì ít gì cũng phải có một người trong chúng ta sẽ cầu xin Thiên Chúa đừng dẫn mình tới sự thánh thiện bằng con đường khủng khiếp và man rợ như thế.
Trong cuốn sách viết về những đứa trẻ bị quỷ nhập ở Illfurth, cha Francois Gaquère có kể hai trường hợp bị quỷ nhập khác, với ít chi tiết hơn rất nhiều. Hai trường hợp này xảy ra sau một thời gian ngắn. Chúng tôi chỉ kể lại những trường hợp này một cách sơ lược thôi.
Trước tiên là trường hợp của một thiếu nữ Phi Châu, thuộc dòng giống da đen Nam Phi, tên là Claire-Germaine Cèle, ở Natal (Nam Phi), 17 tuổi, hai lần bị quỷ nhập và hai lần được chữa khỏi. Lần thứ nhất được chữa khỏi nhờ phép trừ quỷ ngày 10.9.1906, và lần thứ hai ngày 24.4.1907. Cô thiếu nữ thổ dân này được rửa tội từ hồi nhỏ và được các nữ tu dòng truyền giáo giáo dục. Gia đình cô bị khủng hoảng bởi sự bất hòa: trong gia đình thường xảy ra những cuộc cãi lộn. Cô bé yếu ớt tỏ ra rất thất thường: sau khi rước Chúa lần đầu, cô đã sớm bỏ bê lãnh nhận các phép Bí tích. Đôi mắt cô trông thấy một bóng đen. Ban đêm cô ngủ không yên. Người ta nghe thấy cô khóc như người điên: "Tôi bị mất linh hồn rồi! Tôi đã xưng tội và rước lễ phạm sự thánh rồi! Tôi đã treo cổ tự tử!". Một hôm, cô ta cho cha Erasme, một linh mục thừa sai, xem một cái phiếu, mà cô nói rằng trong đó cô đã tự bán mình cho ma quỷ. Ngày 20.8.1906, cô tỏ ra đau khổ hơn bình thường. Cô nghiến răng, sủa như một con chó và kêu cứu. Cô nói với chị cô:
"Chị ơi! Hãy kêu cha Erasme tới! Em muốn xưng tội và thú nhận tất cả. Nhưng hãy lẹ lên, vì ma quỷ muốn giết em. Nó đang chế ngự em. Em không còn một vật gì đã làm phép cả, em đã làm mất tất cả các ảnh đeo mà chị cho rồi!".
Tới đây, người ta có thể nghĩ rằng đó chỉ là những khủng hoảng do việc sa sút về trí tuệ thôi. Nhưng thật ra có nhiều triệu chứng rất rõ cho thấy đó là chứng quỷ nhập. Germaine sợ sệt tất cả những đồ vật đã được làm phép, cô đẩy chúng ra xa và nói rằng chúng thiêu đốt cô. Cô biết được những chuyện ở xa và bí mật. Cô đều hiểu được mọi thứ tiếng mà người ta nói với cô, cô có thể lập lại những công thức rất dài bằng tiếng Latinh ở trong sách Các phép. Cô còn sửa sai những ai bị lầm lẫn khi đọc những công thức đó. Con quỷ ở trong người cô rất lắm chuyện, nó thích nói ra những cách cư xử thân mật, cũng như những tội lỗi bí mật của những người tới xem, khiến cho đa số bị mắc cỡ phải chạy trốn. Nó tỏ ra giận dữ khi người ta kêu cầu thánh danh Giêsu hay Maria.
Đối với nạn nhân, nó làm cho cô đủ mọi hành động độc ác. Khi thì nó kéo cô lên trên không khí mà không một sức mạnh nào có thể cầm giữ lại được, khi thì nó làm cho lồng ngực và bụng cô phình to lên, khi thì làm cho cái đầu của cô có một bề ngoài trông rất quái đản, đôi má của cô cũng phồng to lên như hai quả bóng, cổ thì dài ra, và một cái bướu hiện lên trông dễ sợ. Dưới lớp da của cô, có một cục tròn nổi lên và chạy khắp tay chân cô. Những lần khác cô ta trườn trên mặt đất như một con rắn, vừa trườn vừa phóng lưỡi ra. Nhưng chỉ cần rảy nước thánh hay có một linh mục ban phép lành cũng đủ làm mọi hành động tàn nhẫn đó ngưng lại ngay. Tuy nhiên, cảnh tượng cũng như hậu quả của trường hợp quỷ nhập này đã ảnh hưởng một cách cụ thể tới rất nhiều người. Một số người chứng kiến đã trở lại với Chúa, và một số rất lớn đã tăng trưởng lòng đạo đức của mình lên.
Nạn nhân được trừ quỷ hai lần đều có kết quả, điều đó chứng tỏ quyền năng của các kinh nguyện trong Giáo Hội. Lần trừ quỷ sau do chính Đức Giám Mục Henri Delalle làm, ngài là người Apremont, gần Metz, xứ Lorraine, ngài thuộc dòng Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong khi cử hành nghi thức trừ quỷ, có xảy ra một biến cố mà nếu không có nhiều người làm chứng thì khó mà tin được. Sau nghi thức cầu nguyện dài hai tiếng rưỡi, cô gái bị quỷ nhập bỗng nhiên bay cao lên 2 mét, và nói với vị Giám Mục đang ngạc nhiên: "Này ông Giám Mục, tại sao ông lại nhìn tôi ngạc nhiên thế? Ông hãy bắt chước tôi xem!". Cùng lúc đó, nó phát ra một tiếng cười ghê rợn làm các người hiện diện đứng tim! Dẫu sao, cuối cùng cô bé đã được chữa khỏi. Sau đó cô sống một đời sống tốt đẹp, và 6 năm sau cô chết vì một chứng bệnh ở ngực, ngày 14.3.1913. Con quỷ không trở lại với cô lần nào nữa. Thử thách của cô cũng chấm dứt như của các em ở Illfurth. Các em không bị ma quỷ hành hạ nữa, nhưng cả hai đều chết yểu: Thiébaut chết lúc 16 tuổi, còn người em là Joseph, chết năm 1882, lúc được 25 tuổi.
Trường hợp quỷ nhập thứ hai mà cha Gaquère kể lại là một trường hợp quỷ nhập tập thể. Những sự kiện này được ghi lại trong một tập sách nhan đề Bullotin de la Société des Missions étrangères de Paris (Tập san của Hội Thừa sai Paris ở ngoại quốc), in tại Hồng Kông vào những năm 1949-1950. Tác giả những bài này là Đức Cha Cooman, đã từng làm Giám mục phó Thanh Hóa. Các trường hợp quỷ nhập này đã xảy ra ở Phát Diệm, thuộc tỉnh Ninh Bình, miền bắc Việt Nam vào năm 1924-1925.
Nạn nhân đầu tiên là một tập sinh thuộc dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm, một dòng tu địa phương. Khi mới bắt đầu xảy ra, thì có những tiếng động dữ dội, và dường như có một bàn tay vô hình giáng xuống người của chị Maria Diện, lúc đó đang làm tập sinh, và có những hòn đá từ đâu ném tới, hoặc những cây gậy đánh vào người không phải chỉ một mình chị Diện, mà còn đánh cả những người tới cứu chị nữa.
Việc bách hại này từ đâu đến vậy? Trong các trường hợp quỷ nhập, không phải lúc nào cũng biết được nguồn gốc. Sau này chúng tôi sẽ đưa ra những thí dụ về nguồn gốc rõ ràng của chứng quỷ nhập: những thầy pháp có kí kết những giao ước với ma quỷ có thể can thiệp hay nhúng tay vào chuyện này. Trong trường hợp của Germaine Cèle mà chúng ta vừa nghe kể sơ lược có nguyên nhân là cô đã rước lễ một cách không nên, phạm sự thánh. Đối với hai em bị quỷ nhập ở Illfurth, người ta phỏng đoán là do một phụ nữ bị nghi là phù thuỷ đã cho các em ăn một trái táo có bùa phép. Trong trường hợp của chị Maria Diện, thì có một thanh niên 20 tuổi, tên Minh, khi hành hương tới chùa Đền Sòng, một chùa ngoại đạo nổi tiếng, để xin các "thần linh" giúp hỏi cô gái này về làm vợ. Ngày 22.9.1924, con quỷ vừa đánh đập chị Diện ở mặt và miệng, vừa tuyên bố:
"Đây là lần thứ tư người ta tới chùa để hỏi mi về làm vợ! Vì thế, cuối cùng ta phải bắt mi". Sự hành hạ kì cục này xảy ra liên tục trong gần 2 năm, gây sợ hãi cho các tập sinh, có những tiếng động ghê rợn, có những vật được ném tới không biết từ đâu: đá, gỗ, khoai, chai rỗng, hay có những tiếng chim hót, ngựa hí, còi xe hơi kêu, hoặc có những tiếng đôm đốp ở cửa, tiếng cười ghê rợn, hay có những tiếng khóc lóc thổn thức nghe não nuột, hay những tiếng rầm rầm. Nói chung, có tất cả những gì chúng ta đã gặp trong trường hợp ma quỷ quấy phá cha sở thánh họ Ars.
Nhưng điều khủng khiếp nhất là các tập sinh khác cũng tới phiên bị phá phách nữa. Trong tu viện như có một sự truyền nhiễm kì cục. Tự nhiên các tập sinh lại thi nhau trèo lên những cây cau trong vườn, một loại cây cao từ 8 đến 10 mét. Muốn tránh trò leo trèo này, người ta phải để các cây thánh giá nho nhỏ ở thân các cây cau. Có sự kiện các tập sinh tự nhiên trốn ra khỏi nhà dòng một cách vô ý thức, mà sau đó không còn nhớ gì cả. Nhưng sự hiện diện của ma quỷ trong các tập sinh được biểu lộ rõ rệt nhất qua việc biết các thứ tiếng, và biết những chuyện bí mật một cách không thể giải thích theo tự nhiên được. Cuối cùng phải đi đến quyết định làm phép trừ quỷ. Không dưới 14 người bị quỷ nhập. Điều này khiến người ta nghĩ tới trường hợp quỷ nhập có tầm cỡ lịch sử của các nữ tu dòng Ursule ở Loudun vào thế kỷ 17.
Cuộc chiến đấu để trừ quỷ kéo dài và cam go. Con quỷ ra khỏi, nhưng sau đó trở lại một cách dữ tợn hơn. Do đó, những vị làm phép trừ quỷ phải hết sức kiên trì. Tháng 12.1925, nhà tập Phát Diệm mới tìm lại được sự bình an vĩnh viễn. Năm 1949, khi kể lại những sự kiện này, Đức Cha Cooman đã lưu ý rằng có một sự bình an tốt đẹp và những tâm tình sốt sắng luôn luôn được biểu lộ nơi các chị dòng Mến Thánh Giá này.
Trong số những người bị quỷ nhập, có 3 người đã trở thành những bà bề trên tuyệt hảo của tu viện. Chính chị Maria Diện, người đầu tiên bị quỷ nhập, về sau đã thực hiện hoàn hảo chức năng của một vị tập sư ở tu viện Thanh Hóa. Và chị đã qua đời ngày 6.8.1944 trong những tâm tình đạo đức cao siêu nhất.